GS. Đỗ Xuân Hợp sinh ra và lớn lên ở phố Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; nhập ngũ năm 1946; được Nhà nước phong học hàm Giáo sư năm 1955; thụ phong quân hàm Thiếu tướng, danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân năm 1985.
GS.TS. Đỗ Xuân Hợp (1906-1985)
Năm 1932, vừa tròn 26 tuổi, BS Đỗ Xuân Hợp trở thành trợ lý giảng dạy Bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của GS Pierre Huard, Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội.
Sau 10 năm giảng dạy và miệt mài nghiên cứu, BS Hợp đã thu thập được một khối lượng lớn những tư liệu quý về giải phẫu hình thái của các dân tộc trên đất nước Việt Nam cũng như trong toàn cõi Đông Dương. Mùa xuân năm 1942, cùng người thầy là Pierre Huard, ông cho xuất bản cuốn sách tiếng Pháp Morphologie humaine et anatomie artistique (Hình thái học nhân thể và giải phẫu học nghệ thuật). Đó là một bộ sưu tập phong phú, một công trình nghiên cứu nghiêm túc, làm cơ sở cho nhiều ngành khoa học như: Y học, Nhân chủng học, Dân tộc học, Khảo cổ học, Mỹ học… Vừa ra mắt bạn đọc, cuốn sách đã gây tiếng vang trên diễn đàn Y học Pháp và Việt Nam. Ngoài việc dạy tại Đại học Y Hà Nội, GS. Hợp còn được mời giảng bài về giải phẫu học tại Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Ông là một trong những người được chế độ thuộc địa trả lương cao nhất Đông Dương. Bảy năm sau, ngày 13/12/1949, Viện Hàn lâm Y học Quốc gia Pháp quyết định tặng hai tác giả Pierre Huard và Đỗ Xuân Hợp Giải thưởng Testut, một giải thưởng lớn trong ngành Giải phẫu học thế giới thời ấy.
Thế nhưng, chính vào lúc Viện Hàn lâm nổi tiếng này quyết định tặng ông Giải thưởng Testut, thì GS Đỗ Xuân Hợp cùng nhiều nhà Y học Việt Nam nổi tiếng khác như Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Tích Trí, Trần Hữu Tước, Đặng Vũ Hỷ, Vũ Đình Tụng… theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã giã từ “Hà Nội vàng son”, rong ruổi trên những nẻo đường kháng chiến. Từ Nhật Bản, GS Đặng Văn Ngữ đã trở về Chiêm Hoá, Tuyên Quang, tham gia xây dựng Đại học Y kháng chiến do GS Hồ Đắc Di làm Hiệu trưởng, GS Tôn Thất Tùng làm Giám đốc Bệnh viện thực hành của trường. Cả một thế hệ những người thầy thuốc lừng danh, những bậc trí thức hàng đầu đất nước, với tình cảm cách mạng sục sôi, tự nguyện rời bỏ cuộc sống đầy đủ về vật chất để đến với đồng bào nghèo khó, bất chấp mọi gian khổ, hy sinh. Cuộc đời họ quả là những tấm gương trong sáng tuyệt vời đối với thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Lòng yêu nước sâu lắng của họ đáng được đời đời khắc tạc trên bảng vàng, bia đá… Là chuyên gia giải phẫu học nổi tiếng ở Đông Dương và cả ở Pháp, nhưng GS Đỗ Xuân Hợp không nề hà nhận bất cứ việc gì mà kháng chiến đòi hỏi, từ cấp cứu, điều trị thương binh, bệnh binh, phụ trách bệnh viện, đến tổ chức đào tạo cán bộ y tế sơ cấp, trung cấp cho Quân đội… Chiến trường càng mở rộng, đòi hỏi càng nhiều cán bộ quân y. Trong điều kiện vô cùng gian khổ ở chiến khu, làm thế nào để đào tạo được những cán bộ Y tế vừa đạt chất lượng chuyên môn, vừa đáp ứng đủ yêu cầu về số lượng của các đơn vị Quân đội? Đó là điều lo lắng ngày đêm của GS Hợp và đồng nghiệp. Nhớ lại những năm trước kia theo học trường Y và âm thầm tự học thêm, ông thấy rõ nỗi vất vả do thiếu sách và tạp chí chuyên ngành để tham khảo. Nhưng dù sao lúc đó còn ở giữa lòng Hà Nội, sẵn tủ sách gia đình và thư viện, lại nhờ sử dụng thành thạo tiếng Pháp nên ông dễ tìm ra tài liệu để đọc, để học. Chứ lúc này đây, trong lửa đạn hiểm nguy, giữa rừng sâu bản vắng, hơn nữa các học viên lại có trình độ tiếng Pháp không đồng đều thì biết xoay xở sao đây? GS Hợp nhận thấy chỉ có cách biên soạn càng nhanh càng tốt những bài giảng bằng tiếng nước mình. Ông phải bỏ ra biết bao công sức để đọc sách tiếng Pháp, chọn từ ngữ nào trong tiếng Việt để dịch cho chính xác, dễ hiểu, rồi soạn bài giảng bằng tiếng Việt sao cho thật gọn, thật rõ. Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động khi ngồi đọc lại những dòng hồi ức chân thành của Giáo sư.
Cuộc kháng chiến ngày càng gay go, quyết liệt. Thương binh ngày càng nhiều. Qua khảo sát, GS Hợp nhận thấy vết thương ở chân, tay bao giờ cũng chiếm tỷ lệ lớn. Từ các bài giảng ông dần dần tập hợp lại, soạn thành cuốn “Giải phẫu tứ chi và thực dụng ngoại khoa” năm 1952 ở chiến khu Việt Bắc. Tập sách không chỉ là tài liệu chính để giảng dạy trong Nhà trường, mà còn là cuốn “cẩm nang” để các cán bộ quân y ở các đơn vị tham khảo khi phải mổ cấp cứu thương binh ngay tại chiến trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen. Chính phủ ta tặng GS Hợp Huân chương Kháng chiến.
Trong 20 năm (1952 – 1971), GS Đỗ Xuân Hợp biên soạn xong cả bộ sách giáo khoa Giải phẫu học hoàn chỉnh, gồm nhiều tập, với gần 1.500 trang và hơn 900 hình ảnh minh họa. Với cuốn sách Y khoa đầu tiên bằng tiếng Việt được in ở Việt Bắc năm 1952, GS Đỗ Xuân Hợp được coi là một trong những người lập công đầu đưa tiếng mẹ đẻ vào giảng dạy ở bậc đại học. Ông đã làm một khối lượng công việc khổng lồ: dịch sang tiếng Việt hàng chục nghìn từ về y học và Giải phẫu học, chính xác và sáng tạo, góp phần làm giàu tiếng Việt ta, tránh lạm dụng các từ gốc Hán. Nội dung cuốn sách quả đã đạt được mục tiêu do ông tự đề ra.
Bộ sách được Nhà xuất bản Y học in nhiều lần, tổng cộng gần 20 nghìn bản. Mỗi lần in lại, GS Hợp đều cẩn thận sửa chữa, bổ sung các số liệu mới và đặc điểm giải phẫu học của cơ thể người Việt Nam, đặc biệt là những kinh nghiệm mổ mà ông và đồng nghiệp mới đúc kết được qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bộ sách ấy, ngoài những tài liệu kinh điển rút ra từ các tài liệu giải phẫu học nước ngoài, ông còn bổ sung những đặc điểm hình thái học của người Việt Nam do chính ông sưu tầm và công bố. Ngoài ra, ông còn nêu lên những điều chỉ dẫn về mổ, về khám bệnh dựa trên các chi tiết giải phẫu học được trình bày. Cách biên soạn ấy rất phù hợp với yêu cầu đào tạo cán bộ Y tế ở nước ta.
Trong suốt cuộc đời mình (1906 – 1985), GS Đỗ Xuân Hợp là tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 100 công trình nghiên cứu và gần 20 cuốn sách chuyên khảo về các lĩnh vực Giải phẫu học ngoại khoa, Nhân chủng học, Khảo cổ học, Mĩ học rất có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nhưng có lẽ bộ sách Giải phẫu học gồm bốn tập “Giải phẫu học đại cương và giải phẫu đầu – mặt – cổ”, “Giải và thực dụng ngoại khoa chi trên và chi dưới”, “Giải phẫu ngực” và “Giải phẫu bụng” vẫn là bộ sách lớn nhất của cả đời ông. Gần bốn thập niên đã trôi qua kể từ khi ông hoàn thành tập cuối cùng của bộ sách ấy (năm 1971), ở nước ta đã xuất hiện thêm nhiều cuốn sách Giải phẫu học khác viết bằng tiếng Việt, nhưng có lẽ chưa có cuốn nào vượt được bộ sách của Thiếu tướng, GS Đỗ Xuân Hợp về khối lượng, chất lượng bản thảo cũng như về số lượng bản in. Từ năm 1960 – 1978, ông là Phó Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam từ khi thành lập; sáng lập viên và là Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam (1968 – 1985); chuyên viên đầu ngành Giải phẫu Việt Nam. Ông đã tham gia đào tạo 15.000 cán bộ Y tế trong và ngoài Quân đội, là tác giả 128 công trình về Giải phẫu, Nhân trắc và Hình thái người Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội từ Khóa II đến Khóa VII, Ủy viên Thường vụ Quốc hội Khóa IV, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Y tế – Xã hội của Quốc hội Khóa VI, Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Khóa III, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội Khóa IV. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.
Thiếu tướng, GS Đỗ Xuân Hợp qua đời cách đây hơn hai thập niên. Nhưng những công trình khoa học của Thầy vẫn được xã hội trân trọng, trí tuệ và đức độ của Thầy vẫn soi đường và là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ thầy thuốc học tập noi theo.