Nguyễn Ngọc Ánh1, Nguyễn Minh Kỳ2, Lê Đức Thắng1, Lê Thị Hạnh1, Lê Văn Hải1, Lê Đình Tùng1, Ngô Xuân Khoa1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Ngọc Ánh
Email: nngocanh@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 5.7.2022
Ngày phản biện khoa học: 25.7.2022
SUMMARY
EVALUATE ANATOMICAL LENGTH AND FUNCTIONAL LENGTH OF ANAL CANAL
Background: In the world, there have been many studies to determine the anatomical length and functional length of the anal canal. In Vietnam, the studies on the anal canal and its sphincters have been rarely implemented.
Objectives: Determine the anatomical anal canal length by dissection of fresh-frozen cadavers, by pelvic magnetic resonance imaging (MRI) and determine the functional anal canal length measured by high resolution anorectal manometry (HRAM).
Subjects and methods: Descriptive study on 10 specimens of rectum and anal canal dissected from fresh-frozen cadavers preserved at -30°C at the University of Medicine and Pharmacy in Ho Chi Minh City and 79 healthy people who participated in HRAM study which measured the functional anal canal length, in which 35 cases were taken with 1.5 Tesla pelvic MRI at Viet Duc Hospital.
Results: The anatomical anal canal length measured on fresh-frozen cadavers was 36.1 ± 4.2 mm and by means of pelvic MRI was 38 ± 4.27 mm. The mean functional anal canal length (FACL) was 41.5 ± 5.4 mm and the high pressure zone length (HPZ) was 33.4 ± 5.7 mm, with gender differences (p<0.05).
Conclusion: The anatomical length of the anal canal is shorter than its functional length with significantly statistical difference.
Key word: anal canal, anatomical anal canal length, functional anal canal length, high pressure zone (HPZ) length.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ống hậu môn (OHM) là đoạn cuối của ống tiêu hóa, tiếp theo trực tràng và thông ra da qua lỗ hậu môn [1]. OHM được bao quanh bởi cơ thắt hậu môn ngoài (EAS – external anal sphincter) và cơ thắt hậu môn trong (IAS – internal anal sphincter). Giải phẫu cấu trúc và chức năng của OHM liên quan trực tiếp đến các bệnh lý thường gặp trên lâm sàng như co cứng hậu môn (Anismus), tổn thương cơ thắt ở sản phụ sau khi sinh qua đường âm đạo, bệnh phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung) hoặc các dị dạng hậu môn trực tràng ở trẻ nhỏ [2]. Nắm rõ giải phẫu và sinh lý hậu môn – trực tràng là chìa khóa quan trọng để điều trị thành công các bệnh lý liên quan đến khu vực phức tạp này.
Nghiên cứu giải phẫu OHM bằng phương pháp phẫu tích xác cổ điển cho thấy hình thể, cấu tạo và xác định chiều dài các cơ thắt hậu môn [2-3]. Hiện nay, các phương pháp thăm dò cận lâm sàng cho phép khảo sát chức năng và hình thái của phức hợp cơ thắt hậu môn như chụp cộng hưởng từ (CHT), máy đo áp lực hậu môn trực tràng (ALHMTT) trên cơ thể sống [4-6]. Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới xác định chiều dài giải phẫu và chiều dài chức năng ống hậu môn [2-6]. Tại Việt Nam, những nghiên cứu về ống hậu môn và các cơ thắt hậu môn còn ít được thực hiện. Máy đo ALHMTT độ phân giải cao (High resolution anorectal manometry – HRAM) bắt đầu được đưa vào sử dụng từ 2010 ở Việt Nam và mở ra những hướng nghiên cứu mới về ống hậu môn [2]. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Xác định chiều dài giải phẫu của ống hậu môn bằng phẫu tích xác tươi, bằng phương pháp chụp CHT chậu hông và xác định chiều dài chức năng ống hậu môn thông qua máy đo ALHMTT độ phân giải cao.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu
- Nhóm đo chiều dài giải phẫu:
- 10 tiêu bản ống hậu môn – trực tràng (HMTT) phẫu tích từ xác tươi bảo quản đông sâu -30°C tại trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
– Tiêu chuẩn lựa chọn: Tuổi từ 18 đến 90. Xác tươi bảo quản lạnh trong tủ đông sâu -30°C chưa phẫu tích vùng HMTT và sàn chậu. Không có bệnh lý vùng HMTT.
– Tiêu chuẩn loại trừ: Chất lượng bảo quản vùng HMTT không đảm bảo để phẫu tích.
- 35 người được chụp cộng hưởng từ chậu hông trên máy SIEMENS 1.5 Tesla tại Bệnh viện Việt Đức để khảo sát cấu trúc các cơ thắt hậu môn theo các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ như ở mục 2.1.2.
- Nhóm đo chiều dài chức năng: 79 người khoẻ mạnh được đo chiều dài chức năng ống hậu môn bằng máy đo ALHMTT độ phân giải cao ISOLAB HR tại Bệnh viện Việt Đức, trong đó có bao gồm 35 người được chụp cộng hưởng từ chậu hông trên máy SIEMENS 1.5 Tesla tại Bệnh viện Việt Đức để khảo sát cấu trúc ống hậu môn.
– Tiêu chuẩn lựa chọn: Tuổi từ 18 đến 80, khỏe mạnh, không mang thai, không có các bệnh lý ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng cơ thắt. Không có tiền sử điều trị can thiệp vào vùng HMTT trước đó. Không có các triệu chứng: rối loạn đại tiện, rối loạn tiểu tiện, tức nặng vùng chậu, đau vùng chậu hông.Tình nguyện tham gia vào nghiên cứu, sau khi được nghe giải thích kỹ quy trình nghiên cứu, các yếu tố tích cực và bất tiện.
– Tiêu chuẩn loại trừ: Mang máy tạo nhịp hoặc có các vật liệu kim loại trên cơ thể (dụng cụ kết hợp xương, khớp nhân tạo, máy khử rung nhĩ…). Không hợp tác tốt được trong quá trình đo đạc, chụp phim.
- Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Phương pháp chọn mẫu, cỡ mẫu: Chọn mẫu thuận tiện theo tiêu chuẩn chọn mẫu và tiêu chuẩn loại trừ ở mục 2.1.
- Các bước tiến hành nghiên cứu:
- Nhóm nghiên cứu đặc điểm giải phẫu ống hậu môn.
(1) Quy trình phẫu tích lấy tiêu bản trên xác tươi và đo đạc các kích thước:
-Chuẩn bị: Xác được nhân viên chuẩn bị tại phòng mổ xác tươi, đặt xác tư thế nằm sấp. Bàn phẫu tích, dụng cụ, thước kẹp Venier caliper, máy ảnh.
– Tiến hành: Bước 1: Phẫu tích đi từ vùng mông. Bước 2: Bóc khối cơ nâng và OHM. Bước 3: Định hình dáng cho khối cơ nâng – ống hậu môn. Cả khối cơ nâng – OHM được đặt trong tủ đông. Bước 4: Đo đạc số liệu nghiên cứu. Khối hậu môn đông lạnh được cắt thành 4 phần theo trục 12 giờ – 6 giờ và 3 giờ – 9 giờ. Mỗi phần và 2 mặt cắt của mỗi phần được đánh số như hình 2.1. Thu thập số liệu đo đạc và chụp hình trên các mặt cắt.
Hình 1 Khối hậu môn đông lạnh được cắt thành 4 phần
– Các biến số và chỉ số nghiên cứu
- Các biến số và chỉ số đo đạc trên khối hậu môn xác tươi.
Chiều dài OHM được đo từ chỗ nối hậu môn trực tràng đến hết bờ dưới cơ thắt hậu môn ngoài theo trục thẳng đứng. Dùng thước kẹp đo theo các mốc như hình vẽ. Lấy sai số tới 1/100 mm. Tất cả các giá trị này được đo trên đường kính song song với bề mặt tổ chức nền bên dưới (hai ngành thước kẹp vuông góc với bề mặt tổ chức nền bên dưới). Chiều dài OHM được tính bằng trung bình các kích thước đo được trên các mặt cắt.
Hình 2. Chiều dài ống hậu môn vị trí 3h (Mã số 771)
(2) Quy trình chụp cộng hưởng từ chậu hông
- Máy chụp cộng hưởng từ 1.5T của hãng Siemens, Hệ thống PACS Carestream, Đĩa CD lưu hình ảnh.
- Các biến số và chỉ số nghiên cứu:
– Đặc điểm về tuổi, giới.
– Chiều dài OHM (mm): Từ chỗ nối HMTT đến hết OHM (bờ dưới cơ thắt hậu môn ngoài) trên mặt phẳng cắt đứng ngang (coronal).
Hình 3. Hình ảnh đo chiều dài OHM trên lát cắt T2 Coronal trong thì nghỉ (B.M.T. 38T – Mã số: 227-VD-7545)
Nhóm đo chiều dài cơ thắt chức năng.
Quy trình đo ALHMTT bằng máy đo độ phân giải cao
+ Hệ thống ISOLAB HR giúp các tín hiệu áp lực từ ống tiêu hóa, kết hợp với phần mềm ViMeDat (Dữ liệu quan sát y học). Đầu dò có đường kính 0,6cm, chứa 8 cảm biến, nằm dọc theo chiều dài.
+ Các biến số và chỉ số nghiên cứu
- Đặc điểm về tuổi, giới.
- Chiều dài cơ thắt chức năng được tính là chiều dài vùng có áp suất cao hơn 5 mmHg so với áp suất không khí trong thì nghỉ.
- Chiều dài cơ thắt vùng áp lực cao (HPZ: high pressure zone) là chiều dài của cấu hình áp suất trung bình trong khung áp suất nghỉ cao hơn 25% áp lực cơ thắt tối đa.
Hình 4. Chiều dài chức năng ống hậu môn (FACL) và vùng áp lực cao (HPZ) (H.H.L. 38T – Mã số: 228-VD-5510)
Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS, Excel với các thuật toán thống kê phù hợp. Các kết quả định lượng được thể hiện dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn với khoảng tin cậy 95%, các kết quả định tính được thể hiện dưới dạng tỷ lệ %. Kiểm định các giá trị trung bình dùng hàm t – student, có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu Y sinh của trường Đại học Y Hà Nội (Quyết định số 21NCS17/HDDDDHYHN ký ngày 08/02/2018). Nghiên cứu được thực hiện dưới sự đồng ý của các cơ quan nơi tiến hành nghiên cứu. Khách quan trong đánh giá và phân loại, trung thực trong xử lý số liệu, đảm bảo tính bí mật của thông tin.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.Đặc điểm các nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm các nhóm nghiên cứu
3.2. Đặc điểm chiều dài giải phẫu và chiều dài chức năng ống hậu môn
Bảng 2. Chiều dài giải phẫu và chiều dài chức năng của ống hậu môn
Nhận xét: Chiều dài ống hậu môn đo được trên tiêu bản phẫu tích xác tươi bảo quản lạnh là 36,13 ± 4,15 mm, không có sự khác biệt giữa nam và nữ (p > 0,05). Chiều dài ống hậu môn đo được trên phim cộng hưởng từ chậu là 38 ± 4,27 mm, không có sự khác biệt giữa nam và nữ (p > 0,05). Sự khác biệt về chiều dài ống hậu môn của 2 nhóm đo không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chiều dài cơ thắt chức năng (FACL – Functional Anal Canal Length) trung bình là 41,5 ± 5,4 mm và chiều dài vùng áp lực cao (HPZ – High Pressure Zone) là 33,4 ± 5,7 mm, có sự khác biệt giữa nam và nữ (p < 0,05).
- So sánh các kích thước:
– Chiều dài OHM trên phẫu tích xác tươi không có sự khác biệt với kích thước này đo trên CHT chậu hông (p > 0,05).
– Chiều dài OHM trên phẫu tích xác tươi nhỏ hơn chiều dài chức năng OHM (p < 0,01), không có sự khác biệt với chiều dài HPZ (p > 0,05).
– Chiều dài OHM đo trên CHT chậu hông nhỏ hơn chiều dài chức năng OHM (p < 0,001), lớn hơn chiều dài HPZ (p < 0,001).
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chiều dài giải phẫu ống hậu môn
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành trên 10 xác tươi gồm 5 nam, 5 nữ với độ tuổi trung bình là 70,9 ± 9,5 tuổi. Tuổi trung bình của nhóm phẫu tích xác tươi của chúng tôi lớn hơn so với những nghiên cứu khác (Bảng 4). Qua chụp cộng hưởng từ chậu hông, chúng tôi khảo sát cấu trúc cơ thắt trên 35 người tình nguyện khoẻ mạnh với tỉ lệ nữ/nam: 1,33 và tuổi trung bình là 41,6 ± 10,4, tương đương với nghiên cứu nghiên cứu của Kasaya Tantiphlachiva (2014) thực hiện trên 46 người Thái, tỉ lệ nam : nữ là 15 : 31 với độ tuổi trung bình là 47 ± 13 tuổi. Các nghiên cứu trước đây về CHT chậu, siêu âm trực tràng thường được thực hiện trên nhóm nữ, ít khi ở nam, do trên lâm sàng các khảo sát hình ảnh vùng hậu môn trực tràng, sàn chậu liên quan nhiều đến nữ.
Bảng 4. Chiều dài ống hậu môn trong các nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài ống hậu môn (anal canal length) đo được trên xác tươi là 36,13 ± 4,15 mm. Chiều dài OHM đo được bằng phương pháp chụp cộng hưởng từ chậu hông là 38 ± 4,27 mm. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Chiều dài OHM được đo bắt đầu từ chỗ nối hậu môn trực tràng và kết thúc ở bờ dưới cơ thắt hậu môn ngoài tại rìa hậu môn. Rìa hậu môn là mốc chuyển tiếp từ phần thấp OHM với da của đáy chậu. Sắc tố da xung quanh rìa hậu môn tương ứng gần tương ứng với bó dưới da của cơ thắt hậu môn ngoài và các cơ nhăn da hậu môn (corrugator ani). Việc xác định rìa hậu môn có thể khó khăn trên xác tươi, tuy nhiên, có thể xác định bằng màu sắc và sự nhăn nheo đặc trưng của da bên ngoài. Theo các mô tả kinh điển, OHM dài từ 2,5 đến 5 cm ở người lớn, thành trước hơi ngắn hơn thành sau [1,2] . Nó thường ngắn hơn ở nữ (Bảng 4). Năm 1981, Nivatvongs và cộng sự [3] nghiên cứu chiều dài của ống hậu môn ở 108 nam và 103 nữ; độ tuổi dao động từ 18 đến 90 tuổi (trung bình 59 tuổi) thông qua đặt thước đo khi thăm trực tràng. Chiều dài trung bình của ống hậu môn phẫu thuật là 4,2 cm (3,0-5,3 cm). Chiều dài trung bình là 4,4 cm (3,2-5,3 cm) ở nam cao hơn so với chiều dài trung bình 4 cm (3,0-5,0 cm) ở phụ nữ có ý nghĩa thống kê. Năm 2000, nghiên cứu của Rociu và cộng sự [6] sử dụng CHT có đầu dò hậu môn độ phân giải cao ở 100 người tình nguyện khoẻ mạnh, tuổi từ 18-85, báo cáo chiều dài ống hậu môn ở nam là 55,5 ± 8,6 mm và ở nữ là 56,6 ± 8,7 mm, không có sự khác biệt giữa 2 giới và không liên quan với tuổi.
4.2. Đặc điểm chiều dài chức năng ống hậu môn
Nhóm đối tượng đo ALHMTT độ phân giải cao (HRAM) của chúng tôi là 79 người, có tuổi trung bình: 41,4 ± 13 năm với tỉ lệ nữ : nam = 1,08. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu phù hợp với các nghiên cứu giá trị bình thường của HRAM trên thế giới trước đây. Năm 2012, Noelting [7] có báo cáo đầu tiên về đo ALHMTT trên 62 phụ nữ không triệu chứng, có tuổi trung bình 44±17. Năm 2014, nghiên cứu của Carrington 2014 [8] tiến hành trên 115 người (96 nữ, 19 nam) với tuổi trung bình là 42,8 tuổi (18-72 tuổi).
Chiều dài OHM chức năng (FACL – Functional Anal Canal Length) (thì nghỉ): 41,5 ± 5,4 mm, có sự khác biệt giữa nam và nữ (p<0,05). Nghiên cứu của Carrington [8] cho thấy chiều dài trung bình là 3,9cm (2,4-5,1) ở nam lớn hơn nữ (3,5cm (2,3-5)) có ý nghĩa thống kê (p=0,024). OHM chức năng (FACL) được biểu thị bằng một vùng có áp lực cao trên 5mmHg, có chiều dài gần tương đương với OHM phẫu thuật. Chiều dài vùng áp lực cao (HPZ-High pressure zone): 3,34 ± 0,57 (1,6-4,0) cm. Theo nghiên cứu của Noelting [7] ở các phụ nữ không có triệu chứng, HPZ trung bình dài 3,5 cm và không tương quan với tuổi. Chiều dài HPZ có liên quan đến cơ chế tự chủ hậu môn và rối loạn đại tiện. Biến đổi HPZ có liên quan đến cơ chế rối loạn đại tiện, HPZ dài hơn góp phần làm tự chủ hậu môn hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá ích lợi của thông số HPZ để phân biệt giữa người khỏe mạnh và các rối loạn đại tiện. Theo Vollebregt (2019) [9], ngưỡng “cut -off” của chiều dài chức năng của OHM để phân định giữa nhóm chứng và nhóm người bệnh rối loạn đại tiện là chiều dài chức năng của các vùng áp lực từ 20mmHg trở lên.
Chiều dài OHM trên phẫu tích xác tươi nhỏ hơn chiều dài chức năng OHM (p < 0,01), không có sự khác biệt với chiều dài HPZ (p > 0,05). Chiều dài OHM đo trên CHT chậu hông nhỏ hơn chiều dài chức năng OHM (p < 0,001), lớn hơn chiều dài HPZ (p < 0,001). Chiều dài chức năng ống hậu môn là độ dài đoạn ống hậu môn có áp lực khi nghỉ lớn hơn 5 mmHg. Áp lực hậu môn thì nghỉ tạo ra bởi trương lực cơ thắt hậu môn trong (55%) và ngoài (30%) và các búi tĩnh mạch trĩ (15%) [2],[7],[8]. Thành phần cơ tạo nên áp lực hậu môn bao gồm cơ thắt hậu môn trong, cơ thắt hậu môn ngoài, cơ dọc kết hợp, cơ mu trực tràng, cơ nâng hậu môn, cơ vòng trực tràng. Sự tham gia của các cơ phía trên mốc đo chỗ nối hậu môn trực tràng (cơ mu trực tràng) khiến chiều dài đoạn ống hậu môn chức năng có áp lực lớn hơn 5 mmHg lớn hơn chiều dài giải phẫu ống hậu môn. Lý thuyết về hệ thống tự chủ 3 vòng của Shafik (1975) [10] mô tả cơ chế hoạt động của cơ thắt hậu môn ngoài trong hoạt động tự chủ của hậu môn lúc đại tiện: Vòng trên gồm có cơ mu – trực tràng và bó sâu của cơ thắt ngoài. Vòng giữa là bó nông của cơ thắt ngoài. Vòng dưới là bó dưới da của cơ thắt ngoài. Vòng trên kéo ngang và ra sau; vòng dưới kéo xuống, ra trước; làm cho OHM đóng kín không cho hơi đi qua. Từng vòng riêng lẻ có thể duy trì tính tự chủ của hậu môn đối với phân đặc, còn đối với phân lỏng và hơi thì cần cả 3 vòng nguyên vẹn. Nửa trên của ống hậu môn có vai trò quan trọng trong tự chủ hậu môn và hoạt động đại tiện [2]. Vòng dưới chính là bó dưới da của cơ thắt ngoài là một vòng cơ riêng biệt trông giống như một chiếc nhẫn. Phần này tạo nên áp lực ống hậu môn của phần cơ thắt hậu môn ngoài không chồng lấn (phần không phủ lên cơ thắt hậu môn trong). Đây là phần cơ có thể dễ dàng sờ thấy qua thăm khám lâm sàng, thường liên quan đến các bệnh lý nứt kẽ hậu môn, rò hậu môn. Sự co thắt của vòng cơ này gây tăng áp lực hậu môn thì nghỉ, đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của nứt kẽ hậu môn.
V. KẾT LUẬN
Chiều dài ống hậu môn đo được trên tiêu bản phẫu tích xác tươi bảo quản lạnh là 36,13 ± 4,15 mm và trên phim cộng hưởng từ chậu là 38 ± 4,27 mm, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chiều dài cơ thắt chức năng (FACL – Functional Anal Canal Length) trung bình là 41,5 ± 5,4 mm và chiều dài vùng áp lực cao (HPZ – High Pressure Zone) là 33,4 ± 5,7 mm, có sự khác biệt giữa nam và nữ (p < 0,05). Chiều dài chức năng lớn hơn chiều dài giải phẫu của ống hậu môn có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu cung cấp các thông tin về chiều dài giải phẫu và chức năng của ống hậu môn, có giá trị trong tìm hiểu các bệnh lý hậu môn trực tràng và áp dụng vào các phẫu thuật của vùng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trịnh Văn Minh (2015). Giải phẫu người Tập 2. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, tr 444-459.
- Nguyễn Trung Vinh (2015). Sàn chậu học. Nhà xuất bản Y học.
- Nivatvongs S, Stern HS, Fryd DS (1981). The length of the anal canal. Dis Colon Rectum;24:600-1.
- Aronson MP, Lee RA, Berquist TH (1990). Anatomy of anal sphincters and related structures in continent women studied with magnetic resonance imaging. Obstet Gynecol. 1990 Nov;76(5 Pt 1):846-51.
- Tantiphlachiva K. (2014). Normative anatomy of the anal sphincter detected with 3D-endoanal ultrasonography. Asian Biomed, 7(6), 865.
- Rociu E, Stoker J, Eijkemans MJ, Laméris JS (2000). Normal anal sphincter anatomy and age- and sex-related variations at high-spatial- resolution endoanal MR imaging. Radiology;217:395-401.
- NoeltingJ, RatuapliSK, BharuchaAE, et al (2012). Normal values for high-resolution anorectal manometry in healthy women: effects of age and significance of rectoanal gradient. Am J Gastroen- terol 2012; 107: 1530–6.
- Carrington EV, Brokjaer A, Craven H, et al (2012). Traditional measures of normal anal sphincter function using high- resolution anorectal manometry (HRAM) in 115 healthy volunteers. Neurogastroenterol Mo 2014;26:625–635.
- Vollebregt PF, Rasijeff AMP, Pares D, et al (2019). Functional anal canal length measurement using high-resolution anorectal manometry to investigate anal sphincter dysfunction in patients with fecal incontinence or constipation. Neurogastroenterol Motil. 2019 Mar;31(3):e13532.
- Shafik A (1975). A new concept of the anatomy of the anal sphincter mechanism and the physiology of defecation. The external anal sphincter: a triple-loop system. Invest Urol.12:412-9.
( Nguồn: Số 518, tháng 9/2022, Tạp chí Y Học Việt Nam, trang 61-69, link full tạp chí: )